Follow US

Thứ Tư, 9 tháng 12, 2020

Sự khác nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị

Sự khác nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị

Khi mà công việc của Kế toán quản trị còn khá mới ở Việt Nam thì câu hỏi được nhiều người quan tâm nhất chính là "Sự khác nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị" là gì? 

Sự khác nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị

Kế toán tài chính

Kế toán tài chính là thuật ngữ không mới. Nói đến kế toán tài chính, hầu như ai cũng đã biết các công việc của họ phải làm. Công việc của kế toán tài chính đòi hỏi sự chính xác, tuân thủ rất nhiều nguyên tắc về Luật & Thuế.

Công việc của kế toán tài chính rất nhiều, tùy theo quy mô công ty mà bộ phận kế toán có thể có từ một đến 100 thậm chí là hàng ngàn người đảm nhận nhiệm vụ kế toán tài chính. Kế toán tài chính có thể làm những công việc từ đơn giản như: Hạch toán các giao dịch tài chính, ghi nhận sổ sách, đến các việc phức tạp hơn như Lập báo cáo tài chính từ cấp độ công ty đến cấp độ tập đoàn.

Nói chung kế toán tài chính sẽ là người ghi nhận tất cả các giao dịch phát sinh trong quá khứ, tổng hợp lại và báo cáo cho ban quản trị và báo cáo ra các bên liên quan như Cổ đông, cơ quan Thuế…

Kế toán quản trị

Kế toán quản trị thông thường sẽ làm báo cáo trong nội bộ. Họ có thể dựa vào các số liệu của kế toán tài chính để dự báo cho tương lai, hoặc đưa ra các quyết định giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, hoặc tăng giá trị cho khách hàng, tăng lợi nhuận… Kế toán quản trị có thể làm các báo cáo mà không cần phải tuân thủ các quy định, và có thể không có quy chuẩn nhất định. Thông thường kế toán quản trị không những phải hiểu về tài chính mà còn phải hiểu rõ về cách thức kinh doanh của doanh nghiệp cũng như phải nhạy bén trong kinh doanh.

Hiện tại ở Việt Nam đa phần dạy kế toán tài chính, nhưng chưa chú trọng đến kế toán quản trị, trong khi đây đang là xu hướng chung mà doanh nghiệp cần. Và CIMA CMA là 2 chương trình về kế toán quản trị đang được học viên Việt Nam lựa chọn để có thể cập nhật kiến thức và đáp ứng các đòi hỏi ngày càng cao của các doanh nghiệp.

Sự khác nhau giữa Kế toán tài chính và Kế toán quản trị


Kế toán quản trị Kế toán tài chính

Mục đích

Cung cấp thông tin phục vụ điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập các báo cáo tài chính.

Đối tượng sử dụng thông tin

Các nhà quản lý doanh nghiệp (Hội đồng quản trị, ban giám đốc) Các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp (Nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê)

Đặc điểm thông tin

Nhấn mạnh đến sự thích hợp và tính linh hoạt của số liệu, thông tin được tổng hợp phân tích theo nhiều góc độ khác nhau. Thông tin ít chú trọng đến sự chính xác mà mang tính chất phản ánh xu hướng biến động, có tính dự báo vì vậy thông tin kế toán quản trị phục vụ cho việc đánh giá và xây dựng các kế hoạch kinh doanh, thông tin được theo dõi dưới hình thái giá trị và hình thái hiện vật. Ví dụ: Kế toán vật tư ngoài việc theo dõi giá trị của vật tư còn phải theo dõi số lượng vật tư. Phản ánh thông tin xảy ra trong quá khứ đòi hỏi có tính khách quan và có thể kiểm tra được. Thông tin chỉ được theo dõi dưới hình thái giá trị.

Nguyên tắc cung cấp thông tin

Không có tính bắt buộc, các nhà quản lý được toàn quyền quyết định và điều chỉnh phù hợp với nhu cầu và khả năng quản lý của doanh nghiệp. Phải tôn trọng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận và được sử dụng phổ biến, nói cách khác kế toán tài chính phải đảm bảo tính thống nhất theo các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán nhất định để mọi người có cách hiểu giống nhau về thông tin kế toán đặc biệt là báo cáo tài chính và kế toán tài chính phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là những yêu cầu quản lý tài chính và các yêu cầu của xã hội thông qua việc công bố những số liệu mang tính bắt buộc.

Phạm vi của thông tin

Phạm vi thông tin của kế toán quản trị liên quan đến việc quản lý trên từng bộ phận (phân xưởng, phòng ban) cho đến từng cá nhân có liên quan Phạm vi thông tin của kế toán tài chính liên quan đến việc quản lý tài chính trên quy mô toàn doanh nghiệp

Kỳ báo cáo

Kế toán quản trị có kỳ lập báo cáo nhiều hơn: Quý, năm, tháng, tuần, ngày. Kế toán tài chính có kỳ lập báo cáo là: Quý, năm

Quan hệ với các môn khoa học khác

Do thông tin kế toán quản trị được cung cấp để phục vụ cho chức năng quản lý, nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán tài chính thì kế toán quản trị còn phải kết hợp và sử dụng nội dung của nhiều môn khoa học khác như: Kinh tế học, thống kê kinh tế, tổ chức quản lý doanh nghiệp, quản trị đầu tư để tổng hợp phân tích và xử lý thông tin. Kế toán tài chính ít có mối quan hệ với các môn khoa học khác.

Tính bắt buộc theo luật định

Kế toán quản trị không có tính bắt buộc Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định: Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định có nghĩa là sổ sách báo cáo của kế toán tài chính ở mọi doanh nghiệp đều phải bắt buộc thống nhất, nếu không đúng hoặc không hạch toán đúng chế độ thì báo cáo đó sẽ không được chấp nhận

Hy vọng phần giải thích của Tình trên đây sẽ giúp bạn phần nào hiểu được sự khác biệt giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị

Nếu bạn cần tư vấn về các khoá học liên quan đến kế toán tài chính và kế toán quản trị, vui lòng liên hệ:

Điện thoại: 0934 128 486 (Zalo, Viber…)

Email: tinhtran@ftmsglobal.edu.vn